văn hóa phi vật thể – Lamnghethuat.com https://lamnghethuat.com Trang thông tin nghệ thuật Việt Nam Wed, 17 Sep 2025 23:23:34 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/lamnghethuat/2025/08/lamnghethuat.svg văn hóa phi vật thể – Lamnghethuat.com https://lamnghethuat.com 32 32 Cứu dòng dân ca ví giặm trước nguy cơ mai một https://lamnghethuat.com/cuu-dong-dan-ca-vi-giam-truoc-nguy-co-mai-mot/ Wed, 17 Sep 2025 23:23:29 +0000 https://lamnghethuat.com/cuu-dong-dan-ca-vi-giam-truoc-nguy-co-mai-mot/

Dân ca ví, giặm xứ Nghệ – Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại

Festival 'Đôi bờ Ví, Giặm - Kết nối tinh hoa di sản'
Festival ‘Đôi bờ Ví, Giặm – Kết nối tinh hoa di sản’

Dân ca ví, giặm xứ Nghệ là một phần không thể thiếu trong văn hóa của người dân nơi đây. Với những làn điệu mộc mạc, sâu lắng, dân ca ví, giặm đã trở thành hơi thở và linh hồn của mảnh đất và con người xứ Nghệ. Được UNESCO vinh danh là Di sản Văn hóa Phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2014, dân ca ví, giặm đang đứng trước thách thức của thời đại. Nhiều nghệ nhân, lớp trẻ, các câu lạc bộ, đoàn nghệ thuật ở Nghệ An đã và đang nỗ lực để mạch nguồn quý giá ấy không ngừng chảy, mãi ngân vang trong đời sống hiện đại.

36 học sinh từ các địa phương trong tỉnh Nghệ An có đam mê và năng khiếu với dân ca ví, giặm tham gia lớp truyền dạy. (Ảnh: Bích Huệ/TTXVN)
36 học sinh từ các địa phương trong tỉnh Nghệ An có đam mê và năng khiếu với dân ca ví, giặm tham gia lớp truyền dạy. (Ảnh: Bích Huệ/TTXVN)

Thế hệ trẻ yêu ví, giặm

Tại Nghệ An, lớp truyền dạy dân ca ví, giặm cho học sinh có năng khiếu trong cộng đồng đang được tổ chức. Trong 12 ngày tham gia khóa học, các em được hiểu hơn về những đặc điểm, tính chất làn điệu ví, giặm, thực hành làn điệu ví, giặm, làn điệu hò, làn điệu cải biên… Hai anh em Nguyễn Công Anh (14 tuổi) và Nguyễn Công Minh (9 tuổi) đã tiếp tục theo đuổi và học tập hát dân ca một cách nghiêm túc. Em Hoàng Trà My (16 tuổi) tham gia lớp học để hiểu sâu hơn về kỹ thuật của những làn điệu, cách hát làn điệu đó đúng tính cách nhân vật và nội dung tác phẩm.

Bảo tồn và phát huy di sản

Để bảo tồn và phát huy các giá trị di sản dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh, tỉnh Nghệ An đã mở lớp truyền dạy dân ca ví, giặm cho học sinh có năng khiếu trong các trường tiểu học và trung học cơ sở trên địa bàn. 36 học sinh tham gia lớp truyền dạy hôm nay được tuyển chọn từ 130 xã, phường trên địa bàn tỉnh. Đó là những học sinh thực sự đam mê và có năng khiếu với dân ca ví, giặm.

Bảo tồn, gìn giữ dân ca

Việc bảo tồn ví, giặm không chỉ dừng lại ở lưu giữ mà còn phát huy trong đời sống đương đại. Tại cộng đồng, các nghệ nhân trực tiếp truyền dạy cho con cháu, thế hệ trẻ trong gia đình, làng xóm, câu lạc bộ. Nghệ nhân Nhân dân Võ Thị Hồng Vân, Chủ nhiệm Câu lạc bộ dân ca ví, giặm Ngọc Sơn, xã Xuân Lâm đã mở nhiều lớp chiêu sinh các em nhỏ khắp vùng, miền để dạy hát dân ca.

Phát huy giá trị di sản

Tỉnh Nghệ An thường xuyên tổ chức liên hoan, hội diễn, chương trình biểu diễn dân ca ví, giặm tại địa phương, lễ hội truyền thống, sự kiện văn hóa. Từ đó, các đoàn nghệ thuật, câu lạc bộ dân ca có dịp học hỏi, giao lưu và trao đổi kinh nghiệm. Trung tâm Nghệ thuật truyền thống tỉnh có nhiều giải pháp tiếp nối và phát triển ví, giặm trong bối cảnh hiện đại.

Thách thức trong bảo tồn

Tuy nhiên, quá trình bảo tồn ví, giặm đối mặt không ít thách thức. Đó là nguy cơ mai một do thế hệ nghệ nhân cao tuổi ngày càng ít đi, thế hệ trẻ ít mặn mà, kinh phí hoạt động, địa điểm luyện tập, trang phục, nhạc cụ…; sự thiếu hụt đội ngũ kế cận không chỉ là người hát mà còn thiếu người sáng tác, người nghiên cứu, người tổ chức hoạt động liên quan đến ví, giặm.

UNESCO đã vinh danh dân ca ví, giặm là Di sản Văn hóa Phi vật thể đại diện của nhân loại, chúng ta cần tiếp tục bảo tồn và phát huy giá trị di sản này.

]]>
Khánh Hòa tận dụng di sản văn hóa Chăm để phát triển du lịch https://lamnghethuat.com/khanh-hoa-tan-dung-di-san-van-hoa-cham-de-phat-trien-du-lich/ Tue, 16 Sep 2025 11:08:18 +0000 https://lamnghethuat.com/khanh-hoa-tan-dung-di-san-van-hoa-cham-de-phat-trien-du-lich/

Sau khi tỉnh Khánh Hòa mới được hình thành từ việc sáp nhập tỉnh Ninh Thuận, nơi đây đã trở thành quê hương của một cộng đồng Chăm đông đảo. Với di sản văn hóa đặc sắc, người Chăm tại Khánh Hòa đã và đang tích cực bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc thông qua hệ thống đền tháp, lễ hội, làng nghề, dân ca dân vũ và các phong tục truyền thống.

Các nghệ nhân dân gian múa chào mừng Lễ hội Katê tại tháp Pô Klong Garai
Các nghệ nhân dân gian múa chào mừng Lễ hội Katê tại tháp Pô Klong Garai

Sự sáp nhập này đang mở ra một “cơ hội vàng” cho tỉnh Khánh Hòa trong việc khai thác hiệu quả di sản văn hóa Chăm, đồng thời đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Trước khi sáp nhập, tỉnh Ninh Thuận có gần 20.000 hộ với hơn 90.000 nhân khẩu là đồng bào Chăm. Trong những năm qua, họ đã tích cực bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền thống qua kiến trúc đền tháp, lễ hội, nghề gốm, dệt thổ cẩm, dân ca dân vũ, nhạc cụ dân gian, chữ viết, sử thi…

Đặc biệt, tỉnh Ninh Thuận (cũ) đã có những nỗ lực đáng kể trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xây dựng hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể “Nghệ thuật hát ngâm Ariya của người Chăm” để trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt. Ngoài ra, địa phương này hiện có 80 di sản văn hóa đã được lập hồ sơ và xếp hạng, trong đó có một di sản được UNESCO ghi danh là “Nghệ thuật làm gốm của người Chăm” – Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.

Không chỉ có di sản văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú, đồng bào Chăm ở Ninh Thuận còn tự hào khi có 4 hiện vật được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia. Những hiện vật này không chỉ có giá trị về mặt lịch sử, văn hóa mà còn là niềm tự hào của người Chăm.

Các đền tháp, làng nghề và lễ hội truyền thống của đồng bào Chăm từ lâu đã trở thành điểm đến hấp dẫn, thu hút đông đảo du khách trong nước và quốc tế đến tham quan, trải nghiệm, nghiên cứu và mua sắm sản phẩm thủ công truyền thống. Trong 6 tháng đầu năm 2025, tỉnh Ninh Thuận (cũ) đã đón khoảng 2,29 triệu lượt khách, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm trước. Tổng thu từ hoạt động du lịch ước đạt 2.970 tỷ đồng.

Với việc sáp nhập hai tỉnh Ninh Thuận và Khánh Hòa thành tỉnh Khánh Hòa mới, các chuyên gia và lãnh đạo địa phương tin rằng đây là “cơ hội vàng” để ngành công nghiệp không khói phát triển mạnh mẽ. Tỉnh Khánh Hòa mới đang định hình ngành du lịch trở thành mũi nhọn kinh tế, với thế mạnh đa dạng như du lịch biển, du lịch năng lượng tái tạo, du lịch làng nghề và du lịch mua sắm đặc sản nông nghiệp công nghệ cao.

Sự kết hợp giữa các di sản văn hóa Chăm, Kinh, Raglay và các dân tộc khác sẽ tạo nên bức tranh văn hóa du lịch phong phú, hấp dẫn, thu hút đông đảo du khách trong nước và quốc tế. Do đó, tỉnh Khánh Hòa mới cần tiếp tục đầu tư và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống để thúc đẩy du lịch phát triển.

]]>
Nghề gốm đen Tây Nguyên được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia https://lamnghethuat.com/nghe-gom-den-tay-nguyen-duoc-cong-nhan-la-di-san-van-hoa-phi-vat-the-quoc-gia/ Tue, 02 Sep 2025 05:23:27 +0000 https://lamnghethuat.com/nghe-gom-den-tay-nguyen-duoc-cong-nhan-la-di-san-van-hoa-phi-vat-the-quoc-gia/

Nghề làm gốm truyền thống của người M’nông Rlăm tại buôn Dơng Bắk, xã Liên Sơn Lắk, tỉnh Đắk Lắk, đã tồn tại bền bỉ qua nhiều thế hệ với kỹ thuật ‘nuôi đất’, ‘trích đất’ và nung lộ thiên độc đáo. Gốm của người M’nông Rlăm được biết đến với đặc trưng không sử dụng bàn xoay, không lò nung, không khuôn đúc, tạo nên những sản phẩm mang đậm bản sắc văn hóa.

Nghề gốm truyền thống của người M’nông Rlăm tại buôn Dơng Bắk đã chính thức được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào cuối năm 2024. Ảnh: Tiêu Dao
Nghề gốm truyền thống của người M’nông Rlăm tại buôn Dơng Bắk đã chính thức được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào cuối năm 2024. Ảnh: Tiêu Dao

Quá trình làm gốm bắt đầu từ việc ‘nuôi đất’, tức là ủ đất sét lấy từ bờ sông Krông Ana để giữ ẩm và bảo tồn chất đất. Sau đó, người thợ sẽ ‘trích đất’ – lấy một lượng đất vừa đủ để tạo nên một sản phẩm, được xem như một nghi thức tâm linh. Gốm M’nông Rlăm được tạo dáng hoàn toàn bằng tay, không sử dụng bàn xoay. Người thợ di chuyển xung quanh sản phẩm trong quá trình nặn, tương đồng với cách làm gốm của người Chăm. Sản phẩm sau khi tạo hình được đánh bóng bằng đá, khắc họa tiết bằng que tre, sau đó phơi khô tự nhiên rồi nung trong lửa khoảng 30 phút với nhiên liệu vỏ trấu và mùn cưa.

Các vật dụng truyền thống thường gặp gồm bình, ché, bát, chén, lu đựng nước... đều có độ bền cao, khả năng chịu nhiệt tốt và không tráng men. Ảnh: Tiêu Dao
Các vật dụng truyền thống thường gặp gồm bình, ché, bát, chén, lu đựng nước… đều có độ bền cao, khả năng chịu nhiệt tốt và không tráng men. Ảnh: Tiêu Dao

Gốm truyền thống của người M’nông Rlăm đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào cuối năm 2024. Sự công nhận này đánh dấu bước chuyển quan trọng trong hành trình gìn giữ và phục hồi một làng nghề truyền thống đặc sắc của Tây Nguyên. Tuy nhiên, việc gìn giữ nghề gốm truyền thống của người M’nông Rlăm đang đối mặt với nhiều thách thức, trong đó có sự mai một về nhân lực, nguyên liệu khan hiếm, và khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm.

Lớp khói trấu bám vào bề mặt gốm tạo nên sắc đen bóng đặc trưng – đây là điểm khác biệt nổi bật của gốm M’nông Rlăm so với nhiều dòng gốm khác. Ảnh: Tiêu Dao
Lớp khói trấu bám vào bề mặt gốm tạo nên sắc đen bóng đặc trưng – đây là điểm khác biệt nổi bật của gốm M’nông Rlăm so với nhiều dòng gốm khác. Ảnh: Tiêu Dao

Chính quyền địa phương đã triển khai một số đề án bảo tồn và phát triển làng nghề gốm truyền thống, đặt hàng sản phẩm gốm từ nghệ nhân địa phương, tổ chức các lớp truyền dạy nghề, và giới thiệu sản phẩm đến các đơn vị lữ hành. Gốm thủ công của buôn Dơng Bắk đã được công nhận là sản phẩm OCOP đạt 3 sao cấp tỉnh, mở ra cơ hội tiếp cận thị trường rộng hơn.

Gốm truyền thống của người M’nông Rlăm không sử dụng bàn xoay mà được tạo dáng hoàn toàn bằng tay. Ảnh: Tiêu Dao
Gốm truyền thống của người M’nông Rlăm không sử dụng bàn xoay mà được tạo dáng hoàn toàn bằng tay. Ảnh: Tiêu Dao

Du lịch cộng đồng đã mang đến hy vọng mới cho nghề làm gốm của người M’nông tại buôn Dơng Bắk. Các tour du lịch trải nghiệm đã về đến Yang Tao, tạo điều kiện cho nghệ nhân địa phương trình diễn kỹ thuật làm gốm cổ. Du khách khi đến thăm làng gốm không chỉ được tìm hiểu quy trình thủ công, mà còn có thể trực tiếp tham gia tạo hình, trang trí sản phẩm và mang về làm kỷ niệm. Những hoạt động này bước đầu giúp gốm Yang Tao có thêm cơ hội được hồi sinh, đồng thời trở thành điểm nhấn văn hóa trong phát triển du lịch bền vững tại khu vực Tây Nguyên.

Để làm gốm, người M’nông Rlăm phải biết cách “nuôi đất” và “trích đất” – những khái niệm gắn liền với cả kỹ thuật và tín ngưỡng. Ảnh: Tiêu Dao
Để làm gốm, người M’nông Rlăm phải biết cách “nuôi đất” và “trích đất” – những khái niệm gắn liền với cả kỹ thuật và tín ngưỡng. Ảnh: Tiêu Dao
]]>
Huế đẩy mạnh xây dựng thương hiệu Kinh đô áo dài https://lamnghethuat.com/hue-day-manh-xay-dung-thuong-hieu-kinh-do-ao-dai/ Tue, 19 Aug 2025 12:27:08 +0000 https://lamnghethuat.com/hue-day-manh-xay-dung-thuong-hieu-kinh-do-ao-dai/

Sau hơn hai năm triển khai thực hiện Đề án ‘Huế – Kinh đô áo dài’, thành phố Huế đã đạt được nhiều kết quả tích cực và tạo nên sức hút về dự án văn hóa lớn này. Năm 2025 đánh dấu chặng đường đầu tiên của tầm nhìn đến năm 2030, với những mục tiêu cụ thể đã đề ra. Để đánh giá về hiệu quả và định hướng của đề án, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với TS Phan Thanh Hải, Uỷ viên Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia, Giám đốc Sở Văn hóa – Thể thao Thành phố Huế.

TS. Phan Thanh Hải cho rằng trang phục truyền thống là một biểu tượng giàu tính biểu cảm của bản sắc văn hóa dân tộc. Áo dài Việt Nam – đặc biệt là áo dài ngũ thân truyền thống – không chỉ tôn vinh vẻ đẹp hình thể mà còn phản ánh hệ giá trị văn hóa, đạo đức và triết lí sống của người Việt. Khi một người Việt Nam khoác lên mình chiếc áo dài, đó không chỉ là việc mặc một trang phục, mà là sự tiếp nối một dòng chảy văn hóa lâu đời. Chính vì vậy, áo dài Việt Nam, mà cụ thể là áo dài Huế, hoàn toàn có thể được xem như một ‘sứ giả văn hóa’, có sức mạnh truyền thông vượt qua biên giới quốc gia.

Trong các sự kiện giao lưu văn hóa quốc tế, nhiều người nước ngoài đã nhận diện Việt Nam ngay lập tức qua hình ảnh chiếc áo dài. Giống như khi nhắc đến Nhật Bản là kimono, Hàn Quốc là hanbok… thì Việt Nam là áo dài. Đó là một niềm tự hào không nhỏ, và là cơ sở quan trọng để chúng ta đưa áo dài vào các chiến lược quảng bá văn hóa quốc gia.

TS. Phan Thanh Hải cũng chia sẻ về giá trị lịch sử, văn hóa, thẩm mĩ và sức hút đặc biệt của áo dài Huế. Áo dài Huế có lịch sử phát triển lâu đời, gắn bó mật thiết với triều Nguyễn – triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Các mẫu áo ngũ thân cao cấp dù tay chẽn, tay rộng, hay áo Nhật Bình của phụ nữ… vốn là trang phục trong chốn cung đình và các tầng lớp trí thức, quan lại, mệnh phụ phu nhân.

Đề án ‘Huế – Kinh đô áo dài’ đã đạt được nhiều kết quả tích cực sau hơn hai năm triển khai. Tri thức may và mặc áo dài Huế được ghi danh là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia (2024). Nhiều nội dung thuộc Đề án như hoạt động trải nghiệm, quảng bá, phổ biến áo dài… được tổ chức thường xuyên, liên tục.

Để hiện thực hóa Đề án đến năm 2030, TS. Phan Thanh Hải cho rằng cần tập trung vào bốn nhóm giải pháp trọng tâm: thể chế hóa chính sách, thiết chế văn hóa, giáo dục và truyền thông, kết nối du lịch.

Phong trào mặc áo dài truyền thống ở Huế đang thu hút đông đảo giới trẻ. TS. Phan Thanh Hải cho rằng đây là hiệu ứng tích cực có định hướng, không phải chỉ mang tính phong trào. Điều đáng quý là giới trẻ đã bắt đầu đồng hành với di sản, không chỉ qua việc mặc áo dài mà còn qua hoạt động nghiên cứu, tái hiện, phục dựng.

Về việc công nhận áo dài là quốc phục, TS. Phan Thanh Hải cho rằng đây là một đề xuất có lí, nhưng cần cân nhắc thấu đáo. Áo dài – đặc biệt là áo dài nữ – đã gần như trở thành biểu tượng quốc gia rồi. Tuy nhiên, để định chế áo dài là quốc phục, nhất là trong các lễ tân cấp cao, thì cần có một quá trình nghiên cứu, thử nghiệm, và đồng thuận rộng rãi.

]]>
Tháp Bà Ponagar – Di tích Quốc gia đặc biệt và biểu tượng văn hóa https://lamnghethuat.com/thap-ba-ponagar-di-tich-quoc-gia-dac-biet-va-bieu-tuong-van-hoa/ Thu, 10 Jul 2025 17:15:16 +0000 https://lamnghethuat.com/?p=7950

Tối ngày 10-7, UBND tỉnh Khánh Hòa đã long trọng tổ chức Lễ công bố và đón nhận các danh hiệu di sản văn hóa, trong đó Tháp Bà Ponagar được vinh danh là Di tích Quốc gia đặc biệt.

Tháp Bà Ponagar – Biểu tượng văn hóa và lịch sử

Tháp Bà Ponagar có niên đại từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ XIII, là một trong những di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia quan trọng của Việt Nam. Với giá trị đặc biệt tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật, văn hóa và lịch sử, Tháp Bà Ponagar đã được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia vào năm 1979.

Tháp Bà Ponagar

Tháp Bà Ponagar – Biểu tượng văn hóa và lịch sử

Giá trị văn hóa và lịch sử

Tháp Bà Ponagar hiện còn bảo lưu 14 đạo sắc phong và 28 đơn vị minh văn trên các bia ký cùng nhiều hiện vật quý hiếm khác. Qua quá trình giao lưu, đan xen, tiếp biến văn hóa của lịch sử dân tộc, di tích Tháp Bà hàm chứa những giá trị tiêu biểu của hai dân tộc Chăm – Việt qua hình tượng nữ thần Pô Nagar cũng như tín ngưỡng văn hóa truyền thống lâu đời của cộng đồng dân tộc Việt và Chăm.

Người dân Khánh Hòa biểu diễn văn nghệ

Người dân Khánh Hòa biểu diễn văn nghệ mừng Di tích quốc gia đặc biệt Tháp Bà Ponagar

Di sản văn hóa phi vật thể

Bên cạnh việc công nhận Tháp Bà Ponagar là Di tích Quốc gia đặc biệt, Khánh Hòa còn được vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia “tri thức khai thác và chế biến trầm hương Khánh Hòa”. Đây là một trong những di sản văn hóa phi vật thể quan trọng của tỉnh Khánh Hòa, gắn liền với hình tượng của nữ thần Pô Nagar/Thiên Y A Na.

Khánh Hòa đón nhận Di sản văn hóa phi vật thể

Khánh Hòa đón nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia “tri thức khai thác và chế biến trầm hương Khánh Hòa”

Phát huy giá trị di sản

Tại buổi lễ, ông Nguyễn Long Biên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa, đề nghị Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp tục nghiên cứu, tham mưu, đề xuất cho UBND tỉnh các nội dung, giải pháp cụ thể nhằm góp phần bảo tồn và phát huy có hiệu quả hơn nữa các giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu, đặc sắc của tỉnh Khánh Hòa gắn với di tích quốc gia đặc biệt Tháp Bà Ponagar và di sản văn hóa phi vật thể quốc gia “Tri thức khai thác và chế biến Trầm hương Khánh Hòa”.

]]>